Blog hướng dẫn các cách download kiến thức kinh nghiêm thủ thuật chia sẻ phần mềm tool soft miễn phí là gì. Blog.locbanbekhongtuongtac.com

Table of Content

Cách làm bài nghị luận văn học học sinh giỏi

Phần nghị luận văn học

Trong đề thi Quốc gia môn Ngữ văn năm 2018, phần nghị luận văn học chủ yếu nằm trong chương trình lớp 12. Để đạt điểm khá môn Ngữ văn, trước tiên phải nắm vững kiến thức cơ bản về các tác phẩm trong SGK. Học sinh cần nắm vững các kiến thức cơ bản và trọng tâm về các văn bản trong chương trình như sau:

*Chương trình Ngữ văn 11:
Hai đứa trẻ Thạch Lam;
Chữ người tử tù Nguyễn Tuân;
Chí Phèo Nam Cao;
Vội vàng Xuân Diệu;
Tràng giang Huy Cận;
Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử;
Từ ấy -Tổ Hữu.

*Chương trình Ngữ văn 12:
Tuyên ngôn Độc lập Hổ Chí Minh;
Tây Tiến Quang Dũng;
Việt Bắc (trích) Tố Hữu;
Đất Nước (trích Mặt đường khát vọng) Nguyễn Khoa Điềm;
Sóng Xuân Quỳnh;
Đàn ghi ta của Lor-ca Thanh Thảo;
Người lái đò Sông Đà Nguyễn Tuân;
Ai đã đặt tên cho dòng sông? Hoàng Phủ Ngọc Tường;
Vợ chổng A Phủ (trích) Tô Hoài;
Vợ nhặt Kim Lân;
Rừng xà nu Nguyễn Trung Thành;
Những đứa con trong gia đình Nguyễn Thi;
Chiếc thuyên ngoài xa Nguyễn Minh Châu (Đã giới thiệu cụ thể ở Phần I của cuốn sách)

Dù phần Nghị luận văn học trong đề minh họa chỉ yêu cầu phân tích, nhưng bên cạnh kiểu bài phân tích, cảm nhận văn học, học sinh nên ôn tập kiểu bài so sánh văn học và bình luận văn học (với các vấn đề nhỏ, nhưng sâu sắc).

Khi làm bài thi, những thí sinh dự thi để xét tốt nghiệp chỉ cần bám sát nội dung cơ bản nhất, trả lời ngắn gọn, trúng ý, không cần mất quá nhiều thời gian.

Nhưng với thí sinh xét tuyển các ban C, D và các tổ hợp có môn Ngữ văn, để có điểm tốt nhất tham gia xét tuyển, các em cần phải rèn luyện cách viết sâu sắc, đi vào trọng tâm, ngắn nhưng đủ ý, tránh lối viết dài dòng lan man, quá đề cao cảm xúc, nếu không các em sẽ không đủ thời gian làm bài.

Về mặt hình thức, bài làm của thí sinh phải có cấu trúc hoàn chỉnh của một bài văn (gồm 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài).

Về nội dung, đề bài nghị luận văn học có các dạng bài rất phong phú như: Phân tích, cảm nhận về một tác phẩm, một đoạn trích, một hình tượng, một chi tiết trong tác phẩm; So sánh văn học; nghị luận vê hai ý kiến đối với một tác phẩm, một đoạn trích; Nghị luận về một vấn đề văn học Vì thế, yêu cầu đầu tiên là các em cần đọc thật kĩ để bài, xác định trúng vấn đê cần nghị luận. Sau đó, các em nên gạch ra một vài ý là luận điểm của bài làm để triển khai bài viết. Lưu ý là khi phân tích thơ, phải trích dẫn thơ; phân tích văn xuôi phải đưa ra được dẫn chứng.

Khi làm bài, các em cần chỉ ra những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm hoặc đoạn trích. Trong bài nghị luận văn học, các em cần tránh một số lỗi sau: trích dẫn chứng sai, diễn xuôi thơ, kể lể văn xuôi, không bình giá nghệ thuật của tác phẩm, đoạn trích, suy diễn vô căn cứ nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

*Cách làm tốt bài nghị luận văn học

Bài văn nghị luận chiếm số điểm khá cao trong bài thi môn Ngữ văn. Vậy làm thế nào để làm tốt loại bài này? Những gợi ý sau giúp học sinh dễ dàng giải quyết điều đó:

Căn cứ vào để tài, đối tượng nghị luận mà có hai kiểu bài chủ yếu: nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Nếu như để tài, đối tượng của bài văn nghị luận xã hội là một vấn đê chính trị, tư tưởng, đạo lí, một hiện tượng xã hội thì đối với bài nghị luận văn học lại là tác phẩm, hiện tượng văn học hay những ý kiến, nhận định về văn học. Đây là kiểu bài văn phổ biến, quen thuộc nhất đối với học sinh các cấp nhà trường hiện nay. Học sinh khi làm bài cần hiểu đúng thế nào là bài nghị luận văn học.

Trong chương trình tập làm văn mới hiện hành, không còn sự phân chia các kiểu bài nghị luận văn học như trước đây (giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, bình giảng). Sự thay đổi này nhằm phản ánh đúng hơn bản chất của một bài văn, quy trình làm một bài văn nghị luận văn học.

Thực tế, hiếm có bài văn nào từ đầu đến cuối chỉ hoàn toàn tuân theo một yêu cầu, chỉ vận dụng một thao tác, mà các phép lập luận, các thao tác, phương pháp thường được kết hợp vận dụng khi giải quyết một vấn đề nghị luận. Thật ra, trong một bài nghị luận văn học, người viết thường sử dụng nhiều thao tác, kỹ năng và nhiều khi khó tách bạch một cách rạch ròi các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình giảng, bình luận. Nói như vậy cũng có nghĩa nghị luận văn học là kiểu bài đòi hỏi tính tổng hợp của tri thức, kĩ năng. Muốn làm được một bài nghị luận văn học hay, cùng với kiến thức, năng lực cảm thụ, người viết cần có kĩ năng kết hợp đổng thời, linh hoạt nhiều phép lập luận để làm sáng tỏ vấn đề, để trình bày một cách thuyết phục, hấp dẫn ý kiến, nhận định của mình.

Cách hiểu kiểu bài nghị luận văn học như thế đã bao hàm đòi hỏi tính tích cực, năng lực, bản sắc cá nhân của người viết bài. Một tư tưởng lớn, một phương châm quan trọng trong dạy học hiện nay mà hầu như ai cũng biết đó là phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh. Cần chống lối học vẹt, nói theo tù cách nghĩ đến cách học, cách làm bài. Phân môn Làm văn cần góp phẩn tích cực vào việc thực hiện tư tưởng, phương châm ấy từ cách ra đề đến cách đánh giá. Nghị luận về một vấn đề, phương diện nào đó của tác phẩm truyện, nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cẩn xác định một lập trường, từ một góc độ nào đó để phân tích, lí giải, đánh giá, để bộc lộ chủ kiến của mình.

Ngay chữ phân tích trong yêu cầu của một để văn nghị luận cũng cần hiểu cho đúng, cho toàn diện. Nó không chỉ là một thao tác, một phép lập luận. Nó không chỉ phân chia vấn để, đối tượng ra từng bộ phận, từng khía cạnh để miêu tả, tìm hiểu đặc điểm. Phân tích ở đây bao hàm cả sự nhận xét, đánh giá, lí giải về vấn để, đối tượng ấy bằng tư tưởng, tình cảm của mình. Chẳng hạn, trước đề văn nghị luận Phân tích nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long. Một bài làm văn tốt sẽ không chỉ nêu rồi chứng minh từng vẻ đẹp, phẩm chất của nhân vật anh thanh niên (như lòng yêu nghề, lặng lẽ cổng hiến, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt, đức tính khiêm tốn). Đồng thời với quá trình phân tích từng vẻ đẹp, trình bày từng luận điểm ấy, người viết cần thể hiện sự cảm thụ các chi tiết nghệ thuật sinh động trong tác phẩm, thể hiện thái độ, tình cảm của mình, cần nhận xét, đánh giá về cách miêu tả, xây dựng nhân vật của nhà văn, cần rút ra, khái quát vê ý nghĩa của hình tượng nhân vật Nói như vậy có nghĩa là bài nghị luận văn học đòi hỏi cảm thụ, ấn tượng riêng, đề cao tính chất cá nhân, cá thể của người viết.

Từ đặc điểm của kiểu bài nghị luận văn học nêu trên, chúng ta xác định cụ thể hơn những yêu cầu cơ bản mà một bài nghị luận văn học cần đạt tới.

+ Căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, vào ý đồ sáng tác của nhà văn mà phân tích, làm sáng tỏ các tầng lớp nội dung, ý nghĩa trong ngôn từ, trong hình ảnh của văn bản.

Mọi nhận xét, đánh giá vê tác phẩm chỉ thực sự có ý nghĩa khi xuất phát từ sự hiểu đúng, hiểu sâu. Bài nghị luận văn học tối kị lối phát biểu ý kiến một cách chung chung hoặc chỉ diễn nôm nội dung. Muốn bình đúng, bình hay trước tiên phải phân tích đúng, giảng sâu. Giảng có nghĩa là khám phá, giảng giải nội dung, ý nghĩa của tác phẩm, là giải thích, khẳng định nghĩa lí của vãn bản. Nó có nhiệm vụ chỉ ra các tầng lớp nội dung và chứng minh một cách thuyết phục rằng nội dung ấy tất phải được thể hiện qua hình thức nghệ thuật ấy, rằng hình thức nghệ thuật ấy hợp lẽ thuận tình, có tính độc đáo hơn cả trong việc thể hiện nội dung.

Trong quá trình phân tích, chứng minh tính độc đáo của sự thống nhất giữa nội dung và hình thức ở văn bản tác phẩm, người viết nghị luận cần tìm trúng những chỗ hay, chỗ lạ của các phương thức, thủ pháp thể hiện và khẳng định được rằng hình thức nghệ thuật ấy là phương án tối ưu để thể hiện sinh động nội dung, rằng bất kì sự đổi thay nào đó (dù rất nhỏ) cũng có thể phá vỡ nghĩa lí, phá vỡ tính chỉnh thể của tác phẩm. Chẳng hạn, khi bình giảng khổ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, ta không thể không chú ý đến chữ mướt trong câu Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Chỉ chữ mướt ấy mới diễn tả đúng và hết sức gợi cảm màu xanh non, xanh mỡ màng đang lấp lánh phản chiếu ánh nắng ban mai của vườn ai nơi thôn Vĩ. Vào thời điểm sương đêm còn đẫm trên các ngọn cây, lá cây và ánh mặt trời mới dậy đang chiếu rọi thì mới có mướt. Không thể thay vào đó một chữ bất kì nào khác để đúng và hay được như thế.

+ Cùng với việc giảng giải, phân tích, cần đánh giá, bàn luận về những lời hay ý đẹp của văn bản, về giá trị của tác phẩm, ý nghĩa của vấn đề.

Để khẳng định tính độc đáo các giá trị của tác phẩm, bài nghị luận phải đào sâu vào các tầng lớp ý nghĩa, vào sự thống nhất cao giữa nội dung và hình thức, đổng thời cần liên hệ mở rộng xung quanh chính các vấn đề ấy, cần tổng hợp, nâng cao bằng năng lực khái quát. Ở đây rất cần thao tác so sánh cũng như khả năng cảm thụ văn chương tinh tê cùng với vốn tri thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực. Phân tích các bài thơ viết về người chiến sĩ Vệ quốc như Tây Tiến của Quang Dũng, Đông chí của Chính Hữu, ta không thể không đặt chúng vào hoàn cảnh đất nước thiếu thốn, gian khổ ở những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, vào các thành công và hạn chế của dòng thơ viết về anh bộ đội lúc bấy giờ.

Mặt khác, ta cũng rất cẫn sự hiểu biết về đặc điểm phong cách từng nhà thơ, bút pháp của từng bài thơ để làm sáng tỏ cái hay riêng ở từng tác phẩm. Phân tích nhân vật Chí Phèo, ta cần nhận xét về tính chất điển hình của hình tượng này, cẩn đánh giá vê chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc cùng nghệ thuật điển hình hóa sắc sảo của Nam Cao. Nhìn chung, phần lớn bài văn nghị luận của học sinh hiện nay còn thiên về miêu tả cụ thể (thậm chí kể lể) mà yếu về năng lực khái quát, cô đúc luận điểm và đánh giá. Cẩn luôn đặt ra các câu hỏi Tại sao lại thế? Ý nghĩa của vấn đẽ ở chỗ nào? khi phân tích cụ thể một vấn đề.

+ Bài văn nghị luận cần có hệ thống luận điểm rõ ràng, mạch lạc, những luận cứ đúng đắn, sinh động và lập luận thuyết phục.

Một bài văn nghị luận hay thường có hệ thống luận điểm rõ ràng được kết dính một cách tự nhiên, liền mạch, ý nọ nối tiếp ý kia, đòi hỏi hệ thống luận điểm mạch lạc, sắc thái cá nhân của các nhận xét, đánh giá. Mặt khác, bài văn nghị luận cũng yêu cẩu tính cụ thể, thuyết phục của những luận cứ. Nếu cứ sa đà vào dẫn chứng, phân tích cụ thể mà không nâng lên được tầm khái quát, không đúc kết được thành các nhận định, bài văn sẽ nhạt tính tư tưởng, khó gây ấn tượng. Mặt khác, nếu cứ nêu nhận định, ca ngợi hay phê phán một cách chung chung mà không qua các căn cứ cụ thể, dẫn chứng sinh động thì bài văn cũng thiếu sức thuyết phục, dễ trở nên sáo rỗng. Kết hợp linh hoạt, tự nhiên giữa phân tích, chứng minh cụ thể với nhận xét, đánh giá khái quát vừa là phương pháp tư duy, vừa là kĩ năng làm bài mà người viết văn nghị luận cần rèn luyện. Chẳng hạn, khi nghị luận về một tác phẩm truyện, những nhận xét, đánh giá phải xuất phát từ chủ đề, ý nghĩa của cốt truyện, từ tính cách, số phận của nhân vật, từ đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm. Khi nghị luận về một nhân vật cẩn phân tích, đánh giá từng phương diện cơ bản của nhân vật được nhà văn phản ánh gắn liền với những chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Chẳng hạn, khi nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ, cần làm sáng tỏ nội dung cảm xúc được thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu. Bài nghị luận cần phân tích các yếu tố ấy để có những nhận xét, đánh giá cụ thể, xác đáng. Trước đề bài: Cảm nhận của em về tình đồng chí trong bài thơ Đổng chí của Chính Hữu, không ít học sinh lúng túng khi xác định yêu cầu và tổ chức bài làm. Tình đổng chí trong bài thơ này được diễn tả qua các nhân vật nào, ở thời gian, hoàn cảnh nào của lịch sử dân tộc? Đâu là các chi tiết đặc sắc (ngôn từ, hình ảnh, câu thơ) chứng tỏ vẻ đẹp đặc biệt của tình đổng chí ấy? Bản thân mình tâm đắc nhất với chi tiết nào? Giá trị nhận thức, ý nghĩa tư tưởng của bài thơ Đồng chí là gì? Từ việc trả lời đúng các câu hỏi này, cần xác định rõ và trình bày cảm nhận theo yêu cầu của đề văn bao gồm những gì, nên kết hợp ra sao các thao tác, các phép lập luận
Như vậy, một bài văn nghị luận hay vừa đòi hỏi sự thâm nhập, thẩm bình sâu tác phẩm, vừa yêu cầu kĩ năng tổng hợp, khái quát thành nhận định, đánh giá riêng.

+ Lời văn của một bài nghị luận cần chuẩn xác, trong sáng, thể hiện rung cảm chân thành, tự nhiên của người viết.

Khi viết một bài văn, một tiểu luận, hơn nhau không chỉ ở chỗ viết cái gì mà quan trọng còn là viết như thế nào, bằng thái độ, tình cảm ra sao. Cần cân nhắc từ cách dùng từ đến cách ngắt câu. Ngôn từ phải làm sao diễn tả sát, trúng bản chất của đối tượng, điều mình muốn nói. Giọng văn phải phù hợp với vấn đề, với nội dung, nhiều khi như có hình có khối, giàu nhịp điệu. Viết văn cũng như giao tiếp trong đời sống, không nên hài hước khi cần trữ tình, cảm thương và ngược lại. Giọng điệu lời văn khi phân tích thân phận tủi nhục cùng sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ) tất nhiên cần khác với khi phân tích Số đỏ chẳng hạn. Phân tích câu thơ cuối của bài Đây thôn Vĩ Dạ, có người đã nhận định rằng đó là một cầu hỏi khắc khoải (Ai biết tình ai có đậm đà?). Trong lời khắc khoải này có ước mong tha thiết nhưng ngậm ngùi, khẩn thiết mà đau đớn đúng với cảnh ngộ Hàn Mặc Tử khi ấy. Cũng cần lưu ý rằng: không nên lầm sự rung cảm của lời văn qua các câu cảm thán, như chao ôi.. , đẹp làm sao..hay biết bao nhiêu.. Nếu lạm dụng chúng, bài văn sẽ trở nên sáo rỗng. Rung cảm phải xuất phát thật sự từ đáy lòng, từ sự vỡ lẽ của chính mình. Khi ấy, nó tự toát lên trong ý tứ, trong giọng điệu bài văn mà người đọc không khó nhận ra.

(Theo http://www. luyenthithptquocgia. com)

*Các bước làm bài văn nghị luận

(1) Tìm hiểu đề

Cần khắc sâu tầm quan trọng của việc tìm hiểu đề, trả lời được 4 câu hỏi sau đây:

a. Đề đặt ra vấn đề gì cần giải quyết?

+ Viết lại rõ ràng luận đề ra giấy.

Có hai dạng để:

Đề nổi: Học sinh sẽ dễ dàng nhận ra, cần gạch dưới luận để trong đề bài.

Để chìm: Học sinh cần nhớ lại bài học về tác phẩm ấy, dựa vào chủ đề của bài mà xác định luận đề.

b. Đề yêu cầu nghị luận theo kiểu bài nào?

Dưới đây là các dạng để thường gặp:

+ Bình giảng một đoạn thơ.

+ Phân tích một hình tượng trong một bài thơ, một trích đoạn.

+ Phân tích một đoạn thơ.

+ Phần tích một vấn đề/ một hình tượng trong tác phẩm/ trích đoạn văn xuôi.

+ Phân tích nhân vật.

+ Nêu suy nghĩ về nhân vật, vê một câu nói, một nhận định.

+ Cảm nhận về hình tượng nhân vật.

+ Phân tích vẻ đẹp của nhân vật,

c. Cần sử dụng những thao tác nghị luận nào, thao tác nào là chính?

d. Để giải quyết vấn đề cần sừ dụng những dẫn chứng nào? Ở đâu?

(2) Tìm ý và lập dàn ý

a. Tìm ý

Tự tái hiện lại kiến thức đã học vê những giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đang bàn đến.

Tự suy nghĩ và trả lời các câu hỏi:

+ Xác định giá trị nội dung, tư tưởng: Tác phẩm ấy chứa đựng nội dung gì? Qua nội dung, tác giả thể hiện thái độ, tình cảm gì? Nhà văn muốn gửi gắm thông điệp gì đến người đọc qua tác phẩm?
+ Xác định giá trị nghệ thuật: Để làm nổi bật giá trị nội dung, nhà văn đã sử dụng những hình thức nghệ thuật nào? Thủ pháp nghệ thuật quan trọng nhất mà tác giả sử dụng để gây ấn tượng với người đọc là gì? Chi tiết nào, hình ảnh nào, làm anh/ chị thích nhất? Vì sao? Nhà văn đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật gì?

(Cần lưu ý, việc phân chia hai vấn đề nội dung và hình thức để dễ tìm ý, nhưng khi phân tích thì không nên tách rời giá trị nội dung và nghệ thuật.)

b. Lập dàn ý

Dựa trên các ý đã tìm được, học sinh cần phác họa ra hai dàn ý sơ lược. Cần chú ý: Khi lập dàn ý và triển khai ý phải đảm bảo bố cục ba phần của bài văn, nếu thiếu một phần, bài văn sẽ không hoàn chỉnh và sẽ bị đánh giá thấp.

Dưới đầy là dàn ý cơ bản của một bài văn phân tích tác phẩm:

Mở bài

Giới thiệu vài nét cơ bản về tác giả.

Giới thiệu hoàn cảnh ra đời và xuất xứ tác phẩm.

Giới thiệu luận đề cần giải quyết (Cần bám sát để bài để giới thiệu luận để cho rõ ràng, chính xác. Luận đê cần dẫn lại nguyên văn yêu cầu của đề).

Thân bài

Nêu luận điểm 1 luận cứ 1 luận cứ 2, (Các luận điểm, luận cứ này chính là các ý 1, 2, 3..ý a, ý b, mà các thầy cô đã giảng dạy trong bài học về tác phẩm ấy). Học sinh cần chỉ ra giá trị nội dung thứ nhất là gì?; Trong đó chứa đựng giá trị nghệ thuật gì?; Giá trị tư tưởng tình cảm gì?

Nêu luận điểm 2 luận cứ 1 luận cứ 2, Cần chỉ ra giá trị nội dung thứ hai, trong đó chứa đựng giá trị nghệ thuật gì, giá trị tư tưởng tình cảm gì,

Nhận định chung: Khắc sâu giá trị tư tưởng chỉ ra thành công về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm (so sánh với các tác phẩm khác cùng thời) và nêu hạn chế của nó (nếu có).

Kết bài

Khẳng định giá trị văn học của tác phẩm ở hai mặt nội dung và nghệ thuật.
Sau khi đã có dàn ý, học sinh cần phải biết dựng đoạn dựa theo các luận điểm vừa tìm được.

->> Xem thêm : Phương pháp làm văn nghị luận xã hội Bài thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn tại đây

Video liên quan

Đăng nhận xét